Những nghiên cứu quan trọng về liệu pháp ozone trong điều trị ung thư
Chia sẻ trên :
Lịch sử nghiên cứu
Giai đoạn 1: Ở giai đoạn này, người ta sử dụng ozon dưới dạng dung dịch muối sinh lý bằng cách bơm chúng trực tiếp vào khối u có kích thước đường kính 1 cm. Sau 14 ngày, người ta thấy rằng khối u không có biểu hiện phát triển hơn, một lượng mô đáng kể bị tiêu diệt.
Giai đoạn 2: Ở giai đoạn này, mục đích của thí nghiệm là làm giảm đường kính khối u và tìm kiếm những ảnh hưởng mà ozone có thể gây ra với con vật được làm thí nghiệm. Người ta tiến hành bơm các dung dịch muối sinh lý có nồng độ ozone khác nhau: 100, 400, 900 mcg / L lên các khối u có đường kính 2 cm.
Các nghiên cứu về việc ứng dụng công nghệ ozone trong việc điều trị các bệnh ung thư được tiến hành từ nhiều năm trước đây. Người ta nhận thấy các khối u phát triển là do các tế bào bị thiếu oxy (O. Warburg, 1966, Đức).
Năm 1974, nhà khoa học người Đức J. Varro Đức cho rằng ôzôn và hydrogen peroxide có thể ảnh hưởng đến sự trao đổi chất của các tế bào ung thư.
Năm 1980, F. Sweet et al phát hiện ra rằng nồng độ ôzôn có khả năng ức chế sự phát triển của các khối u ác tính ở phổi, tuyến vú và tử cung.
Năm 1983, M. Arnan, L. DeVries đã điều tra ảnh hưởng của ozon lên ung thư biểu sinh trên chuột. Kết quả của thí nghiệm cho thấy những con vật bị phơi nhiễm với ozon sống lâu hơn 30-40 ngày so với các con vật trong nhóm đối chứng.
Năm 1987, H. Karlic et al đã tạo ra sự ức chế chọn lọc sự phát triển tế bào khối u của ung thư buồng trứng, u nang buồng trứng và ung thư nội mạc tử cung. Các kết quả tương tự đã được chứng minh bởi K. Zanker và Krozek (1989).
Năm 1995, N. Altman cho rằng việc sử dụng ozone giúp xáo trộn tế bào của khối u, cung cấp hiệu ứng chống khối u.
Thí nghiệm về ứng dụng của công nghệ ozone trong điều trị ung thư
Để có kết quả nghiên cứu chính xác về việc ứng dụng công nghệ ozon trong việc điều trị ung thư tại Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Khoa học Trung tâm của Học viện Y khoa Nizhny Novgorod (Nga) vào năm 1994 theo 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Ở giai đoạn này, người ta sử dụng ozon dưới dạng dung dịch muối sinh lý bằng cách bơm chúng trực tiếp vào khối u có kích thước đường kính 1 cm. Sau 14 ngày, người ta thấy rằng khối u không có biểu hiện phát triển hơn, một lượng mô đáng kể bị tiêu diệt.
Giai đoạn 2: Ở giai đoạn này, mục đích của thí nghiệm là làm giảm đường kính khối u và tìm kiếm những ảnh hưởng mà ozone có thể gây ra với con vật được làm thí nghiệm. Người ta tiến hành bơm các dung dịch muối sinh lý có nồng độ ozone khác nhau: 100, 400, 900 mcg / L lên các khối u có đường kính 2 cm.
Kết quả cho thấy, việc sử dụng ozon ở nồng độ cao làm giảm tải cho các mô y tế, huy động các nguồn chống oxy hoá, khôi phục các đặc tính phòng vệ của cơ thể từ đó làm tăng hiệu quả của liệu pháp chống khối u. Tuy nhiên, nồng độ ozon ở mức 900 mcg / L có thể để lại biến chứng.
Như vậy, việc ứng dụng công nghệ ozone vào trong việc điều trị ung thư cho thấy những kết quả khả quan, mở ra hi vọng mới dành cho những người mắc phải căn bệnh nan y này.
Chia sẻ trên :