Ô nhiễm đại dương là gì?
Chia sẻ trên :
Các đại dương là những vùng nước lớn nhất trên hành tinh Trái đất. Trong vài thập kỷ qua, các hoạt động quá mức của con người đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh vật biển trên các đại dương của Trái đất. Ô nhiễm đại dương, còn được gọi là ô nhiễm biển, là sự lan truyền các chất độc hại như dầu, nhựa, chất thải công nghiệp, nông nghiệp và các hạt hóa học vào đại dương.
Vì đại dương là nơi sinh sống của nhiều loại động vật và thực vật biển, nên mỗi người dân có trách nhiệm đóng vai trò của mình trong việc làm sạch các đại dương này để các loài sinh vật biển có thể phát triển trong thời gian dài hơn.
Khai thác các vật liệu như đồng và vàng là một nguồn ô nhiễm chính trong đại dương. Ví dụ, đồng là một nguồn gây ô nhiễm chính trong đại dương và có thể gây trở ngại cho vòng đời của nhiều sinh vật biển và sự sống.
Vì đại dương là nơi sinh sống của nhiều loại động vật và thực vật biển, nên mỗi người dân có trách nhiệm đóng vai trò của mình trong việc làm sạch các đại dương này để các loài sinh vật biển có thể phát triển trong thời gian dài hơn.
Khai thác các vật liệu như đồng và vàng là một nguồn ô nhiễm chính trong đại dương. Ví dụ, đồng là một nguồn gây ô nhiễm chính trong đại dương và có thể gây trở ngại cho vòng đời của nhiều sinh vật biển và sự sống.
Nguyên nhân gây ô nhiễm đại dương
Có nhiều cách khác nhau mà ô nhiễm xâm nhập vào đại dương. Một số trong số đó là:
1. Nước thải
Ô nhiễm có thể xâm nhập trực tiếp vào đại dương. Nước thải hoặc các chất gây ô nhiễm chảy qua nước thải, sông ngòi hoặc cống rãnh trực tiếp ra đại dương. Đây thường là cách các khoáng chất và chất từ các trại khai thác tìm đường vào đại dương.
Việc giải phóng các chất dinh dưỡng hóa học khác vào hệ sinh thái của đại dương dẫn đến giảm nồng độ oxy, phân hủy đời sống thực vật và suy giảm nghiêm trọng chất lượng nước biển. Kết quả là, tất cả các cấp độ của cuộc sống đại dương, thực vật và động vật, đều bị ảnh hưởng nặng nề.
Việc giải phóng các chất dinh dưỡng hóa học khác vào hệ sinh thái của đại dương dẫn đến giảm nồng độ oxy, phân hủy đời sống thực vật và suy giảm nghiêm trọng chất lượng nước biển. Kết quả là, tất cả các cấp độ của cuộc sống đại dương, thực vật và động vật, đều bị ảnh hưởng nặng nề.
2. Hóa chất độc hại từ các ngành công nghiệp
Chất thải công nghiệp và nông nghiệp là một dạng chất thải phổ biến khác được thải trực tiếp ra đại dương, dẫn đến ô nhiễm đại dương.
Việc đổ chất lỏng độc hại ra biển ảnh hưởng trực tiếp đến sinh vật biển vì chúng được coi là nguy hiểm và thứ hai, chúng làm tăng nhiệt độ của đại dương, một hiện tượng được gọi là ô nhiễm nhiệt, vì nhiệt độ của những chất lỏng này khá cao. Động và thực vật không thể tồn tại ở nhiệt độ cao hơn cuối cùng sẽ bị diệt vong.
Việc đổ chất lỏng độc hại ra biển ảnh hưởng trực tiếp đến sinh vật biển vì chúng được coi là nguy hiểm và thứ hai, chúng làm tăng nhiệt độ của đại dương, một hiện tượng được gọi là ô nhiễm nhiệt, vì nhiệt độ của những chất lỏng này khá cao. Động và thực vật không thể tồn tại ở nhiệt độ cao hơn cuối cùng sẽ bị diệt vong.
3. Dòng chảy từ đất liền
Dòng chảy từ đất liền là một nguồn gây ô nhiễm khác trong đại dương. Điều này xảy ra khi nước xâm nhập vào đất ở mức độ tối đa, và lượng nước dư thừa từ mưa, lũ lụt hoặc tan chảy chảy qua đất liền và ra đại dương.
Thông thường, nước này chứa các chất gây ô nhiễm nhân tạo, có hại gây ô nhiễm đại dương, bao gồm phân bón, dầu mỏ, thuốc trừ sâu và các dạng chất gây ô nhiễm đất khác. Phân bón và chất thải từ động vật trên cạn và con người có thể gây hại rất lớn cho đại dương bằng cách tạo ra các vùng chết.
Thông thường, nước này chứa các chất gây ô nhiễm nhân tạo, có hại gây ô nhiễm đại dương, bao gồm phân bón, dầu mỏ, thuốc trừ sâu và các dạng chất gây ô nhiễm đất khác. Phân bón và chất thải từ động vật trên cạn và con người có thể gây hại rất lớn cho đại dương bằng cách tạo ra các vùng chết.
4. Sự cố tràn dầu
Ô nhiễm tàu thuyền là một nguồn ô nhiễm đại dương khổng lồ , mà tác động tàn phá nặng nề nhất là sự cố tràn dầu. Dầu thô tồn tại nhiều năm trên biển và cực kỳ độc hại đối với sinh vật biển, thường khiến động vật biển chết ngạt một khi nó cuốn chúng vào. Dầu thô cũng cực kỳ khó làm sạch, thật không may, có nghĩa là khi nó bị tách ra, nó thường ở lại đó.
Bên cạnh đó, nhiều tàu bị mất hàng nghìn thùng mỗi năm do bão, các trường hợp khẩn cấp và tai nạn. Điều này gây ra ô nhiễm tiếng ồn (tiếng ồn quá mức, bất ngờ làm gián đoạn sự cân bằng của cuộc sống, thường gây ra bởi các phương tiện giao thông) tảo quá mức và nước dằn.
Thông thường, các loài khác cũng có thể xâm nhập vào hệ sinh thái và gây hại cho hệ sinh thái đó bằng cách làm gián đoạn chu kỳ sống của các sinh vật khác, gây ra sự xung đột của thiên nhiên vốn đã bị hủy hoại do ô nhiễm tràn qua.
Bên cạnh đó, nhiều tàu bị mất hàng nghìn thùng mỗi năm do bão, các trường hợp khẩn cấp và tai nạn. Điều này gây ra ô nhiễm tiếng ồn (tiếng ồn quá mức, bất ngờ làm gián đoạn sự cân bằng của cuộc sống, thường gây ra bởi các phương tiện giao thông) tảo quá mức và nước dằn.
Thông thường, các loài khác cũng có thể xâm nhập vào hệ sinh thái và gây hại cho hệ sinh thái đó bằng cách làm gián đoạn chu kỳ sống của các sinh vật khác, gây ra sự xung đột của thiên nhiên vốn đã bị hủy hoại do ô nhiễm tràn qua.
5. Khai thác đại dương
Khai thác đại dương ở biển sâu cũng là một nguồn ô nhiễm đại dương khác. Các công trường khai thác đại dương khoan bạc, vàng, đồng, coban và kẽm tạo ra các mỏ sunfua sâu tới ba nghìn mét rưỡi xuống đại dương.
Mặc dù chúng ta vẫn chưa thu thập được bằng chứng khoa học để giải thích đầy đủ các tác động môi trường khắc nghiệt của việc khai thác dưới đáy biển sâu, nhưng chúng ta có ý kiến chung rằng khai thác dưới biển sâu gây ra thiệt hại cho các tầng thấp nhất của đại dương và làm tăng độ độc hại của khu vực. Thiệt hại vĩnh viễn này cũng gây ra rò rỉ, ăn mòn và tràn dầu mà chỉ cản trở nghiêm trọng hơn đến hệ sinh thái của khu vực.
Mặc dù chúng ta vẫn chưa thu thập được bằng chứng khoa học để giải thích đầy đủ các tác động môi trường khắc nghiệt của việc khai thác dưới đáy biển sâu, nhưng chúng ta có ý kiến chung rằng khai thác dưới biển sâu gây ra thiệt hại cho các tầng thấp nhất của đại dương và làm tăng độ độc hại của khu vực. Thiệt hại vĩnh viễn này cũng gây ra rò rỉ, ăn mòn và tràn dầu mà chỉ cản trở nghiêm trọng hơn đến hệ sinh thái của khu vực.
6. Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí là một nguồn ô nhiễm đại dương khổng lồ. Điều này xảy ra khi các vật thể ở xa trong đất liền bị gió thổi qua một khoảng cách xa và cuối cùng ở đại dương.
Những vật thể này có thể là bất cứ thứ gì, từ những thứ tự nhiên như cát bụi đến những vật thể nhân tạo như mảnh vụn và thùng rác. Hầu hết các mảnh vụn, đặc biệt là mảnh vụn nhựa, không thể phân hủy và vẫn lơ lửng trong dòng chảy của đại dương trong nhiều năm.
Động vật có thể bị dính vào nhựa hoặc nhầm nó với thức ăn, từ từ giết chết chúng trong một thời gian dài. Các loài động vật thường là nạn nhân của mảnh vụn nhựa bao gồm rùa, cá heo, cá, cá mập, cua, chim biển và cá sấu.
Ngoài ra, nhiệt độ của đại dương bị ảnh hưởng nhiều bởi carbon dioxide và thay đổi khí hậu, tác động chủ yếu đến các hệ sinh thái và các cộng đồng cá sống trong đại dương. Đặc biệt, mức độ gia tăng của Co2 làm axit hóa đại dương dưới dạng mưa axit.
Mặc dù đại dương có thể hấp thụ carbon dioxide có nguồn gốc từ khí quyển, nhưng mức carbon dioxide vẫn đang tăng lên đều đặn và các cơ chế hấp thụ của đại dương, do sự gia tăng nhiệt độ của đại dương, không thể theo kịp tốc độ.
Những vật thể này có thể là bất cứ thứ gì, từ những thứ tự nhiên như cát bụi đến những vật thể nhân tạo như mảnh vụn và thùng rác. Hầu hết các mảnh vụn, đặc biệt là mảnh vụn nhựa, không thể phân hủy và vẫn lơ lửng trong dòng chảy của đại dương trong nhiều năm.
Động vật có thể bị dính vào nhựa hoặc nhầm nó với thức ăn, từ từ giết chết chúng trong một thời gian dài. Các loài động vật thường là nạn nhân của mảnh vụn nhựa bao gồm rùa, cá heo, cá, cá mập, cua, chim biển và cá sấu.
Ngoài ra, nhiệt độ của đại dương bị ảnh hưởng nhiều bởi carbon dioxide và thay đổi khí hậu, tác động chủ yếu đến các hệ sinh thái và các cộng đồng cá sống trong đại dương. Đặc biệt, mức độ gia tăng của Co2 làm axit hóa đại dương dưới dạng mưa axit.
Mặc dù đại dương có thể hấp thụ carbon dioxide có nguồn gốc từ khí quyển, nhưng mức carbon dioxide vẫn đang tăng lên đều đặn và các cơ chế hấp thụ của đại dương, do sự gia tăng nhiệt độ của đại dương, không thể theo kịp tốc độ.
Tác động tàn phá của ô nhiễm đại dương
1. Ảnh hưởng của chất thải độc đối với động vật biển
Sự cố tràn dầu gây nguy hiểm cho sinh vật biển theo một số cách. Dầu tràn ra biển có thể dính vào mang và lông của các loài động vật biển, khiến chúng khó di chuyển hoặc bay đúng cách hoặc cho con cái ăn. Ảnh hưởng lâu dài đến sinh vật biển có thể bao gồm ung thư, suy giảm hệ thống sinh sản, thay đổi hành vi và thậm chí tử vong.
2. Sự gián đoạn chu kỳ của các rạn san hô
Dầu tràn nổi trên mặt nước và ngăn cản ánh sáng mặt trời chiếu vào thực vật biển và ảnh hưởng đến quá trình quang hợp. Kích ứng da, kích ứng mắt, các vấn đề về phổi và gan có thể ảnh hưởng đến sinh vật biển trong một thời gian dài.
3. Làm cạn kiệt hàm lượng oxy trong nước
Hầu hết các mảnh vụn trong đại dương không bị phân hủy và ở lại đại dương trong nhiều năm. Nó sử dụng oxy khi nó phân hủy. Kết quả của việc này là nồng độ oxy giảm xuống. Khi nồng độ oxy giảm xuống, cơ hội sống sót của các loài động vật biển như cá voi, rùa, cá mập, cá heo, chim cánh cụt trong một thời gian dài cũng đi xuống.
4. Thất bại trong hệ thống sinh sản của động vật biển
Chất thải công nghiệp và nông nghiệp bao gồm các hóa chất độc khác nhau được coi là nguy hiểm cho sinh vật biển. Hóa chất từ thuốc trừ sâu có thể tích tụ trong mô mỡ của động vật, dẫn đến hệ thống sinh sản của chúng bị hỏng.
5. Ảnh hưởng đến chuỗi thực phẩm
Hóa chất được sử dụng trong công nghiệp và nông nghiệp bị cuốn trôi vào các con sông và từ đó được đưa vào đại dương. Các hóa chất này không được hòa tan và chìm xuống đáy đại dương. Động vật nhỏ ăn phải những hóa chất này và sau đó bị động vật lớn ăn, sau đó ảnh hưởng đến toàn bộ chuỗi thức ăn.
6. Ảnh hưởng đến sức khỏe con người
Động vật từ chuỗi thức ăn bị ảnh hưởng sau đó sẽ bị con người ăn, điều này ảnh hưởng đến sức khỏe của họ vì chất độc từ những động vật bị ô nhiễm này sẽ tích tụ trong các mô của người và có thể dẫn đến ung thư, dị tật bẩm sinh hoặc các vấn đề sức khỏe lâu dài.
Giải pháp cho ô nhiễm đại dương
Ô nhiễm đại dương đang là một vấn đề nhức nhối cần được giải quyết càng sớm càng tốt. Với việc các đại dương trên thế giới đang bị ô nhiễm, các hệ sinh thái biển đang bị xáo trộn nghiêm trọng.
Không chỉ vậy, trữ lượng nước của thế giới cũng ngày càng trở nên hạn chế hơn. Trong những tình huống này, điều cần thiết là chúng ta phải tìm cách giải quyết ô nhiễm đại dương. Một số cách như sau:
Không chỉ vậy, trữ lượng nước của thế giới cũng ngày càng trở nên hạn chế hơn. Trong những tình huống này, điều cần thiết là chúng ta phải tìm cách giải quyết ô nhiễm đại dương. Một số cách như sau:
1. Giảm việc sử dụng các sản phẩm nhựa
Bạn có tin hay không, chất thải nhựa tạo thành phần lớn nhất trong các chất gây ô nhiễm đại dương. Trong số 260 triệu tấn nhựa được sản xuất mỗi năm trên toàn cầu, khoảng 10% được thải ra đại dương.
Những loại nhựa này sau đó mất hàng nghìn năm để phân hủy, trong thời gian đó, nó có thể đe dọa sự sống khủng khiếp đối với sự sống trong đại dương. Do đó, việc giảm sử dụng các sản phẩm nhựa có thể giúp giảm đáng kể tỷ lệ ô nhiễm đại dương.
Những loại nhựa này sau đó mất hàng nghìn năm để phân hủy, trong thời gian đó, nó có thể đe dọa sự sống khủng khiếp đối với sự sống trong đại dương. Do đó, việc giảm sử dụng các sản phẩm nhựa có thể giúp giảm đáng kể tỷ lệ ô nhiễm đại dương.
2. Sử dụng đồ dùng có thể tái sử dụng
Sử dụng và ném chai lọ và dao kéo cũng là một nguyên nhân gây ô nhiễm đại dương. Chúng ta không được quên rằng hầu hết các chai lọ không thể tái sử dụng đều được làm từ nhựa hoặc xốp. Cả hai vật liệu này đều cần vài trăm hoặc nghìn năm để phân hủy.
Một chai nhựa sẽ mất khoảng 450 năm để phân hủy hoàn toàn. Trong khi đó, nó sẽ ở lại bên trong đại dương, giải phóng chất độc có thể gây nhiễm độc cho sinh vật biển.
Một chai nhựa sẽ mất khoảng 450 năm để phân hủy hoàn toàn. Trong khi đó, nó sẽ ở lại bên trong đại dương, giải phóng chất độc có thể gây nhiễm độc cho sinh vật biển.
3. Tái chế
Với sự gia tăng dân số, chất thải được tạo ra cũng sẽ tăng lên đáng kể. Khi việc tìm kiếm các bãi rác ngày càng trở nên khó khăn hơn, rất nhiều chất thải đã tìm đến lòng đại dương. Những chất thải này đổ ra đại dương tồn đọng lâu ngày, ảnh hưởng đến sinh vật biển.
Một trong những cách hữu ích để giảm sản xuất chất thải là tái chế. Trước khi vứt bỏ mọi thứ, chúng ta có thể kiểm tra xem thứ gì đó có thể tái chế được hay không. Sau đó, các sản phẩm có thể được tái chế có thể được đưa đến trung tâm tái chế gần đó.
Một trong những cách hữu ích để giảm sản xuất chất thải là tái chế. Trước khi vứt bỏ mọi thứ, chúng ta có thể kiểm tra xem thứ gì đó có thể tái chế được hay không. Sau đó, các sản phẩm có thể được tái chế có thể được đưa đến trung tâm tái chế gần đó.
4. Ngừng xả rác trên bãi biển và bắt đầu dọn dẹp nó
Bãi biển chắc chắn là một trong những nơi đáng yêu nhất để tham quan và đi chơi. Do đó, có rất nhiều rác thải xung quanh. Điều đầu tiên và quan trọng nhất thực sự cần phải dừng lại là điều này.
Nếu ai đó bị phát hiện xả rác, họ phải dừng lại ngay lập tức và luôn phải tuân thủ một số quy tắc và quy định nghiêm ngặt. Ngoài ra, nếu bãi biển có vẻ không sạch sẽ, chúng tôi có thể nhặt rác và ném vào thùng rác.
Nếu ai đó bị phát hiện xả rác, họ phải dừng lại ngay lập tức và luôn phải tuân thủ một số quy tắc và quy định nghiêm ngặt. Ngoài ra, nếu bãi biển có vẻ không sạch sẽ, chúng tôi có thể nhặt rác và ném vào thùng rác.
5. Giảm sử dụng phân bón hóa học
Để ngăn chặn điều này, việc sử dụng phân hóa học cũng phải được kiểm soát và điều tiết. Cần phải nhớ rằng việc sử dụng quá mức phân bón hóa học không chỉ gây hại cho đất mà còn gây hại cho các vùng nước gần đó và cuối cùng là đại dương. Những dòng nước chảy này rất độc nên chúng rất dễ giết chết các sinh vật biển.
6. Giảm sử dụng năng lượng
Khi dân số tăng lên, nhu cầu về năng lượng của chúng ta cũng tăng theo. Một phần chính của năng lượng này được sản xuất từ dầu mỏ. Dầu mỏ này thu được bằng cách khoan đáy đại dương. Bất kỳ sự rơi vãi nào trong quá trình này đều có thể gây hại cho sinh vật biển. Không chỉ vậy, bản thân thủ tục này cũng vi phạm sự cân bằng sinh thái biển. Vì vậy, bằng cách kiểm soát việc sử dụng năng lượng, chúng ta cũng có thể giải quyết vấn đề ô nhiễm đại dương.
Chia sẻ trên :